Thiết kế Lớp_tàu_khu_trục_I

Lớp I là sự lặp lại của lớp H dẫn trước, ngoại trừ chúng có mười ống phóng ngư lôi (hai dàn năm ống phóng) thay vì tám. Chúng áp dụng cách sắp xếp cầu tàu và phòng lái mới như được thử nghiệm trên những chiếc HeroHereward, ngoại trừ soái hạm khu trục Inglefield.[2] Inglefield còn có một cột ăn-ten trước lớn hơn kiểu ba chân, trong khi các tàu chị em có cột ăn-ten dạng cột. Trọng lượng nặng hơn bởi dàn ống phóng ngư lôi cũng như trang bị cả thiết bị quét mìn và thả mìn sâu (Các con tàu trước đây chỉ mang một trong hai loại) trên một lườn tàu cùng kiểu với lớp H gây ra sự mất cân bằng, đưa đến việc phải có thùng dằn khi lượng nhiên liệu xuống thấp.[1][2]

Tất cả các con tàu đều được gắn thiết bị quét mìn, cùng trang bị mìn sâu và sonar Asdic cho nhiệm vụ chống tàu ngầm. Tất cả đều có khả khả năng cải biến thành tàu rải mìn, bằng cách tháo dỡ các khẩu pháo 4,7 inch ‘A’ và ‘Y’, các ống phóng ngư lôi và thiết bị quét mìn, cho phép mang theo đến 60 quả mìn. Tuy nhiên, chỉ có bốn chiếc được cải biến cho vai trò này.

Các con tàu Thổ Nhĩ Kỳ

Những chiếc lớp I Thổ Nhĩ Kỳ có thiết kế tương tự như các con tàu của Anh, nhưng chỉ mang tám ống phóng ngư lôi (hai dàn bốn ống phóng), giống như lớp H của Anh.

Các cải biến trong chiến tranh

Các cải biến sớm trong chiến tranh (có thể không áp dụng cho những chiếc bị mất sớm)[1] bao gồm thay thế dàn ống phóng ngư lôi phía sau bằng một khẩu QF 12 pounder 3 inch (76,2 mm) phòng không, cắt ngắn ống khói phía sau và cột ăn-ten chính để cải thiện góc bắn của kiểu vũ khí này, và bổ sung một cặp pháo Oerlikon 20 mm hai bên cánh của cầu tàu. Một dàn radar Kiểu 286 bước sóng mét cảnh báo mặt đất được bổ sung khi nó sẵn có, đồng thời các khẩu súng máy phòng không Vickers 0,5 inch (12,7 mm) kém hiệu quả được thay thế bởi pháo Oerlikon. Ống phóng giữa của các dàn phóng ngư lôi được tháo dỡ để giảm bớt trọng lượng nặng bên trên của các con tàu.

Icarus được tháo bỏ tháp pháo ‘Y’ để lấy chỗ chứa thêm mìn sâu lên tổng cộng 110 quả và súng cối. Những chiếc sống sót được trang bị thêm một cặp pháo Oerlikon thứ ba ngang với vị trí đèn pha tìm kiếm, và khẩu pháo 12-inch được tháo dỡ để gia tăng lượng mìn sâu mang theo. Trên một số con tàu, tháp pháo ‘A’ được thay bằng một dàn súng cối chống tàu ngầm Hedgehog ném ra phía trước, nhưng cải biến này dường như được đảo ngược sau đó.[2] Ilex, Intrepid, ImpulsiveIsis được tháo dỡ tháp pháo ‘B’, và hai khẩu pháo QF 6 pounder 10 cwt (2,25 inch/57 mm L/47) được bổ sung trên bệ Mark 1* dùng để chống lại những chiếc E-boat, cùng với một dàn Hedgehog.

Sau này Inglefield được trang bị lại dàn ống phóng ngư lôi thứ hai, nhưng cũng giống như các tàu chị em, ống phóng giữa được tháo dỡ. Một khẩu pháo 4 inch (100 mm) phòng không thứ hai thay thế cho khẩu pháo ‘X’, và nó tổng cộng sáu khẩu Oerlikon. Radar Kiểu 291 sau đó được bổ sung trên đỉnh cột ăn-ten trước[1] cũng như là một bộ định vị bằng sóng cao tần "Huff-Duff" trên một số con tàu.[1] Những chiếc nguyên của Thổ Nhĩ Kỳ cũng được cải biến tương tự những tàu chị em lớp I. Inconstant sau này được được trang bị radar Kiểu 270, một loại radar bước sóng xen-ti mét dò tìm mục tiêu, thay cho bộ điều khiển hỏa lực và máy đo tầm xa trên cầu tàu.[1] Cũng vậy, cuối cùng nó có sáu khẩu Oerlikon.